nguyễn hiền
Bài viết:
Bàn luận
đọc tiếp
Ôn tập:
Chỉnh sửa mã nguồn
Xem lịch sử
Hơn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm nguồn tham khảo để kiểm chứng thông tin. Vui lòng giúp cải thiện bài viết này bằng cách thêm trích dẫn vào các nguồn đáng tin cậy. Nội dung không có nguồn có thể bị đặt câu hỏi và bị xóa. (Tháng 12 năm 2021)
Đối với các mục đích sử dụng khác, xem Nguyễn Hiền (các mục đích sử dụng khác).
nguyễn hiền
阮賢
Thông tin chung
Trạng nguyên giáo dục (1247)
Vị trí Bộ trưởng Bộ Công
Sinh ngày 11 tháng 3 năm 1234
Làng Dương A, tổng Tùng Hiên, huyện Tiên Trường (nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định).
Mất ngày 5 tháng 9 năm 1256 (22 tuổi)
thời Trần
Nguyễn Hiền (tiếng Trung: 阮賢, 11 tháng 3, 1234 – 5 tháng 9, 1256) là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa thi Việt Nam, mười ba tuổi. Cuộc đời của ông gắn liền với nhiều giai thoại dân gian Việt Nam còn được truyền lại cho đến ngày nay.
Cuộc đời và sự nghiệp
Nguyễn Hiền sinh năm 1234 đến 1256 tại làng Dương A, huyện Tùng Hiền, phủ Tiên Trường.[1] (nay là thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định)[2]) Ông đỗ Trạng nguyên năm 13 tuổi, trở thành Trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khoa thi tháng 2 năm Tĩnh Ứng Chín Bình thứ 16 (1247) đời vua Trần Thái Tông. Cùng năm đó, Lê Vương Hổ (黎文休) 17 tuổi đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La (鄧麻羅) 14 tuổi đỗ thám hoa. Đây cũng là khoa thi Khổng Tử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quy định danh hiệu ba vị hoàng hậu gồm trạng nguyên, nhãn khoa và thám hoa.
Khi ông đỗ Trạng nguyên khi còn ở tuổi thiếu niên, vua Trần Tài Tông đã cho ông về quê 3 năm để rèn luyện thêm mới được phong làm quan. Sau 3 năm, vua tuyển ông tiếp tục học tam giáo khoa cử là Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo. Về sau, ông được bổ giữ chức Thượng thư Bộ Công. Ông đã đến nhà Nguyên nhiều lần.
Trong những năm làm quan ở trong cung, Nguyễn Hiền đã có nhiều kế hay phò vua, giúp nước. Năm Ất Mão (1255), nước Đại Việt xâm lược Chiêm Thành, vua Trần Thái Tông hết sức lo lắng, giao Trạng nguyên Nguyễn Hiền đi đánh giặc bảo vệ đất nước. Không lâu sau, quân địch đại bại, Hiền tụ quân ở gần Ngô Mẫn Sơn, bày tiệc khao quân, báo cáo với vua. Nhà vua vui mừng khôn xiết, phong cho ông là “Đệ nhất quan công”.
Liên quan đến nông nghiệp, ông đã xây dựng hồ chứa xung quanh sông Hồng để thúc đẩy sản xuất vụ mùa thành công. Về quân sự, ông mở võ đường để luyện binh.
Ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (1256), Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng qua đời, hưởng dương 21 tuổi. Vua Trần Thái Thông thương tiếc, truy tôn ông là “Đại Vương Thượng Hoàng” và được thờ làm phúc thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Hiện nay, tại quê hương Trạng nguyên Nguyễn Hiền, đền thờ, làng Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn lưu giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, tuyệt sắc, đặc biệt là cuốn sách còn lưu giữ được. Ngọc Pha nói về nghề nghiệp của mình. , trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:
Mười hai tuổi hai nước
Ngàn năm lập tam tài
Được dịch là:
Mười hai tuổi tốt nghiệp hai nước
Ngàn năm chữ “tam tài” viết mãi
Sau khi ông qua đời, để vinh danh chàng trai trẻ tài năng, nhà vua đã đổi tên huyện Tùng Hiến thành Tùng Nguyên để tránh biệt danh của ông.[cần dẫn nguồn]
truyện cười
thần đồng
Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, được mẹ cho đi tu ở chùa Hạ Dương, làng Dương A. Tương truyền khi mới vào trường, ông chỉ viết được 10 trang giấy. học, cô giáo ngạc nhiên. Một đêm, nhà sư nằm mơ thấy Đức Phật quở trách rằng: “Mỗi lần vào chùa các cháu thường nghịch ngợm, sao không cảnh báo, ngăn chặn?”. Nhà sư tỉnh dậy, đốt đuốc khắp chùa, thấy trên lưng tượng có ghi chữ “phạt 30 roi”, riêng hai pho tượng hộ pháp ghi “xử phạt 60 roi”, ông nhận ra ngay. lời Hiền. Một hôm, khi nhà sư đến lớp, anh ta lấy một câu trong sách. “Kính ma thần mà lánh xa” và nói với Hiền rằng “Phật nghĩa là ma thần, con chớ có nhạo báng”. Hiền lập tức nhận lỗi và sửa sạch những chữ đã viết. Từ đó Hiền càng chăm học, học đến đâu nhớ đến đó, xuất chương.
Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mọi người gọi là “thần đồng”. Bấy giờ có một người tên là Đặng, tự cho là đã đọc hết sách, biết danh tiếng Hiền bèn đến nhà Hiền để thử tài, đăng đề:
Phoenix, một con kỳ lân đi du lịch đến Úc
và để giới hạn số câu đối với Hiền, mỗi câu chỉ nên nêu danh tiếng của một loại động vật. Hiền liền tùy cơ ứng biến.
Con rồng bền bỉ
mã bất thường
Từ bi của Hồ Hùng là gì?
Ấp Trác Lộc a.
Được dịch là:
Rồng không bay vào ao hồ
Ngựa không ra khỏi sông
Thật đẹp khi có họ Hồ Hùng
Xây nhà ở Trác Lộc!
Những người họ Đặng rất ngưỡng mộ Hiền và ca tụng ông là “Thiên tài”.
Đỗ Trạng Nguyên chưa được bổ nhiệm
Khoa thi năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền dự khoa thi Hội với bài “Kê kê vào hồ” (bài Vịt con từ biệt mẹ, gà con lên hồ). Vua hỏi, Hiền đối đáp thông thạo cả văn lẫn ý, vua khen ngợi, hỏi han.
– Thầy nào?
Nguyễn Hiền đáp.
– Trời không phải người sinh ra đã biết, nhưng khi có chữ nào không biết thì hỏi thầy chùa.
Nhà vua lại nói.
– Vì còn nhỏ nên trạng nguyên chưa biết nói, phải về nhà học lễ nghi 3 năm mới được sử dụng.
Vì vậy, Trạng Hiền không được đăng quang.
Đi qua lớp vỏ
Nguyễn Hiền về quê nuôi mẹ bằng nghề đọc sách hàng ngày. Hiền còn ham chơi, lúc rảnh rỗi thường cùng lũ trẻ trong làng chơi thả diều… Một lần triều đình tiếp sứ nhà Tàu, sứ thả một vòng xoắn, luồn một sợi chỉ mảnh qua ruột. OK, sau đó bạn có thể vào thành phố. Đó là đồ sứ muốn kiểm tra tài năng của người miền Nam. Vua sai các quan tìm cách thử dây, nhưng ai nấy đều lè lưỡi lắc đầu. Bấy giờ, vua chợt nghĩ đến Trạng nguyên trẻ tuổi Nguyễn Hiền bèn thỉnh kinh.
Một vị quan được cử đi công tác ở làng gặp phải tình huống đó, bắt gặp ngay một đám trẻ chăn trâu đang nghịch đất phía trên đầu làng, trong số đó có một cậu bé khôi ngô đang cho các bạn xem con voi bằng đất sét đi bằng bốn chân. chân và tai, vòi… cử động được. Người đưa tin là trạng thái Hiền, nên đã ra câu thăm dò.
Chính là chữ tự, chém đầu, chữ tử là con, con nhà ai?
Cậu bé nghe vậy, không ngẩng đầu lên mà còn thô lỗ thốt ra một câu.
Vũ là Chung, đặt sau lưng, chữ đinh là con, con hỏi tại sao.
Ý định của tiếng Quan thoại là trích xuất độ tương phản bằng cách trích xuất các ký tự Trung Quốc. Chữ “Ta” (字) có hai phần, phần trên giống như con kê, phần dưới là chữ “zi” (子). Để nguyên chữ tu, cởi bỏ dây trói, để lại chữ tu nghĩa là con, gắn với vế đối tiếp để thành câu hỏi nửa Hán nửa Nôm. Câu hỏi còn mang sắc thái người trên hỏi người dưới như thế nào. Trang Hiền cũng phản bác bằng cách bỏ phần chữ Hán kết hợp với một phần chữ Nôm; Chữ “vu” (于) là một chong có hai nét ngang và móc, bỏ nét ngang (一) ở giữa thì thành chữ. ding” ()丁), có nghĩa là một đứa trẻ, đứa trẻ này rất đúng mực và đối lập rất táo tợn.
Sứ giả biết đó là tỉnh của Hiền, bèn xuống ngựa, truyền ý vua về kinh.
Nhưng Trạng Hiền không chịu, lấy lý do trước kia nhà vua làm lễ cho nhà nước nghèo, nhưng lần này nhà vua làm lễ không đàng hoàng. Viên quan không biết làm sao, đành phải thú thật chuyện sứ giả nước ngoài đưa ra câu đố chưa ai giải được. Trang Hiền chỉ cười và quay lại với lũ trẻ chăn trâu. Trong khi chờ quan lên ngựa, Hiền giục lũ trẻ ca hát.
Chuyện tang thương!
Làm con kiến buộc dây quanh eo
Bên kia lấy giấy mang đi
Một bên được bôi kiến để đánh dấu sự xuất hiện của kiến
Chuyện tang thương!
Quan nghe lời thuộc lòng, biết nước đã bày cách giải quyết, mừng rỡ về kinh.
Bài thơ “Finn”.
Truyền thuyết kể rằng một sứ giả Trung Quốc đã mang một bài thơ ngụ ngôn để thử tài năng của phương nam. Bài thơ như sau.
“Ngày đầu tiên.
Four Sons Son of Crazy Island,
Hai vị vua tranh giành đất đai,
Bốn chữ kỳ.
“
Được dịch là:
“Hai mặt trời bằng nhau trên đầu,
bốn ngọn núi điên
Hai vua tranh giành đất đai,
Bốn miệng nằm trong không gian dọc và ngang.
“
Nhà vua và các quan trong triều không thể giải thích đó là gì. Một vị quan tâu với vua cho mời Nguyễn Hiền đến hỏi Trạng nguyên (người mà vua cho là ở nhà đi tu thêm) về ý nghĩa.
Quan đến làng mời ra gặp, trong lúc Nguyễn Hiền đang ngồi chơi với bạn, Nguyễn Hiền liền báo cho quan.
– Trước đây đại vương nói trẫm không biết lễ, nay chính đại vương cũng không biết lễ. Không ai mời Trạng nguyên về kinh mà không có phép lịch sự.
Quan về tâu vua, rồi đem lễ vật và xe ngựa ra đón, Nguyễn Hiền bằng lòng trở về kinh.
Về kinh, vua đem bài thơ sứ Tàu ra, Hiền liền giải thích như vậy.
Câu đầu tiên có nghĩa là hai chữ “nh” (日) được xếp cạnh nhau. Câu thứ hai có nghĩa là bốn ký tự “shan” (山) được xoay qua lại. Câu thứ ba nói đến hai chữ “vương” (王) đặt chồng lên nhau. Câu thứ tư là bốn chữ “miệng” (口) xếp ngang dọc liền nhau. Tóm lại, cả bài thơ chỉ nói đến chữ đổ (田), nghĩa là đất.
Giải quyết xong, Trần Hiến viết thư cho sứ Tàu, phải thừa nhận phương nam có người tài.