Ngô Miên Thiu (tiếng Trung: , 1498.)[1] hoặc 1499[2] – 1556), xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Các tài liệu sau đều thống nhất Ngô Miên Thiu sinh năm 1499. Văn bia tiến sĩ Việt Nam, Viện Nghiên cứu chữ Nôm, NXB Giáo dục 2008 (Bia số 13/tr.156). Văn miếu Bắc Ninh (bia số 120(4), tr.694). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Dần niên hiệu Quang Tí thứ 3 (1518) đời Lê Chíu Tông.[1][2][3]. Ông giữ các chức quan như Thượng thư bộ Lại, Đô ngự sử, Hàn lâm viện trưởng, Nhập thị kinh diễn, tước Lí Khê Bái.[2]. Sau đó, ông làm quan với nhà Mạc, giữ các chức như Tương Tư Bộ Lễ, Đông Các Đại Học Sĩ, Ngự Sử Đại Đô Ngự Sử, Thư Hàn Lâm Học Sĩ, thăng Trình Khê lên làm quan.[2].
Đáng tiếc là Trạng Ngô Miên Thiu, trạng nguyên duy nhất của họ Ngô, sau 5,6 đời, chỉ có một vài thông tin quý giá về nhân vật lịch sử này. Không chắc vấn đề đến từ đâu. Phải chăng từ đời thứ hai Ngô Miên Thiệu của dòng họ Ngô Tam Sơn?
Cả 5,6 cuốn gia phả của họ Ngô Tam Sơn, sớm nhất là tấm bia đá dựng từ đường của họ Ngô Đồng Độ (
Thôn Đoài, xã Nam Hồng, huyện Đông An, Hà Nội
Năm Giáp Dần đời Tự Đức (1854) – Do VHN đóng dấu, biên soạn và đưa vào Tạp chí Viện trong 1986 Đông Đô Ngô gia phả.
Ngô Trung Hòa biên soạn năm Giáp Ngọ, Thành Thái (1894) – địa bạ VHN là A.1487
v.v…, tổ tổ họ Ngô Tam Sơn là Ngô Hải Sơn xuất Thiền Nho, Quán Hiền sinh Thiền Nho, Ngô Luận sinh Quán Hiền, Ngô Tâm. Ngô Luân đỗ tiến sĩ năm Ất Mùi (1475) triều Hồng Đức; và Ngô Tam sinh Ngô Miên Thiu. Dòng họ Ngô Tam Sơn xác định Ngô Hải Sơn chính là Ngô Khê, nên một ngày trước mộ tổ họ Ngô Tam Sơn ở Lũng Ban, làng Tam Sơn có ghi rõ:
Thành Quốc Công Ngô Khê (1426-1514) là con thứ của Dụ Vương Ngô Từ (ông ngoại vua Lê Thánh Tôn), mộ ông ở quê hương Đông Bảng (Đông Phương), xã Định Hòa, Yên Định Quận, Thành. Tỉnh Hòa. Trong chuyến hành trình “Về Nguồn” của 60 con cháu dòng họ Ngô nhân ngày giỗ Đức Dụ Vương Ngô Tồn (26/03/2016) đã dâng hương viếng mộ ông. Như vậy tiên tổ họ Ngô Tam Sơn (chôn ở Tam Sơn) là con Ngô Khê chứ không phải Ngô Khê.
Ngô Khê sinh năm 1426, Ngô Luận đỗ tiến sĩ năm 1475; Một người 50 tuổi không thể có Huyền Tông (cháu đời thứ 4) đỗ tiến sĩ. Ngô Luân không thể là chắt (cháu đời thứ 3) của Ngô Khê. Giả sử (dù không thực tế) 4 đời nhà Ngô Tam Sơn, đời trước 16, đời sau ra đời, thì năm sinh tương đối của Ngô Luân sẽ là 1474 (1426 + 3x 16=1474). Rồi năm 1475, Ngô Luân mới 1 tuổi thi rớt tiến sĩ. Nghĩa là Ngô Luân phải là cháu Ngô Khế.
Tóm lại, từ Ngô Hải Sơn = Ngô Khê đến Ngô Luân có 1 đời là Tiên Nho, tức ông tổ họ Ngô Tam Sơn (sống và có mộ ở Tam Sơn) là Quán Hi. Gia phả họ Ngô Tam Sơn (dòng thứ 2) do Ngô Hủ biên soạn năm Chính Hòa 12 (1691) ghi ông tổ thứ nhất của họ Ngô Tam Sơn là Ngô Quân Hiền.
Ngô Hữu là con lai 6 đời của Ngô Miên Thiệu
Gia phả họ Ngô Tam Sơn (do ông Ngô Đình Uyển lưu giữ) ghi chép khá chi tiết về thời gian cụ tổ họ Ngô Tam Sơn sinh sống lâu đời tại chùa Cảm Ứng của làng.
Chùa Cảm Ứng thôn Tam Sơn là ngôi chùa rất nổi tiếng được xây dựng vào thời nhà Lưu
Phải chăng vì thế mà Ngô Quân Hiền bị gọi là Tiên Nho? Về Ngô Quân Hiền, Đỗ Trọng Vỹ trong
Sử ký Bắc Ninh được biên soạn vào thời Tự Đức (1848-1883).
“Ngô Quân Hiền người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, làm quan nhà Lê, vào kinh sai sứ, dâng Tài Bảo, không rõ sự tình ra sao”.