Mạc Đĩnh Chi (tiếng Trung: 1272 – 1346), tự là Thiết Phu (節夫), hiệu Thích Am (旇庵), một vị quan, nhà ngoại giao nổi tiếng của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.[1] Năm 1304, niên hiệu Hưng Long thứ 12 đời vua Trần Anh Tông, ông thi đỗ Trạng nguyên. Nhờ trí thông minh và kiến thức rộng lớn, ông đã nhiều lần được cử sang Trung Quốc truyền giáo. Ngoài ra, ông còn được biết đến là thủy tổ trực hệ của các hoàng đế nhà Mạc, được Mạc Tài Tổ tôn miếu hiệu là Viên Tổ (遠祖) và Kiến Thiệu Khâm Mẫn Vạn (建始欽明文) là hoàng đế.皇帝).
Lý lịch:
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Mạc Đĩnh Chi quê quán ở làng Bàng Hà[2] và ba điểm. Năm 1287, ông theo quân Nguyên kháng chiến chống quân Nguyên. Sau khi thắng trận, nhà Trần phạt cả làng, bắt dân đi lính phục vụ vua nhà Trần, không cho ra làm quan, nhưng sau này năm 1304, Mạc Đình Chế vẫn được đi thi. và trở thành một vị quan.[3]
Theo Lịch triều chí, Mak Dinh Chee là người làng Lũng Đông, huyện Chi Lâm, Hải Đông (tỉnh Hải Đông ngày nay), tổ tiên của ông là Mak Hiền Thích, đỗ khoa Thái học, sinh năm Bính Dần, thời vua Lí Nhân Thông.[4] Anh ta thông minh hơn người, nhưng bề ngoài anh ta xấu xí.[1]
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc mở trường học, quy tụ văn nhân bốn phương, cung cấp y phục, đào tạo nhiều nhân tài, trong đó có Mak Dinh Chee. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng Ích Tắc là con thứ của Tùng Hoàng, thông minh, chăm chỉ, am hiểu kinh sử, lục nghệ và văn nhiều nhất đời. Cho dù là công việc lặt vặt như đánh bài, đánh cờ cũng không có công việc nào là không làm thành thạo. từng mở trường học bên hữu cung, chiêu tập văn nhân bốn phương đến học, phục, đào tạo nhân tài, như Mạch Đĩnh Chín ở Bàng Hầu, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v…, gồm 20 người, đều được thu nhận. .dùng cả đời;[5]
sự nghiệp
Năm 1304, đời vua Trần An Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi Khổng Tử, lấy 44 người đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ).[5] Mak Din Chee chuyển sang trạng nguyên; Bùi Mộ đỗ thị, trung phong thám hoa. Khi mới đỗ, vua chê ông xấu xí, nên Mạch Đĩnh Chi làm bài Phù Ngọc tỉnh bài (Sen trong giếng ngọc) để so sánh mình với hoa sen. Có một phần trong bài báo.
Nó trống rỗng và bất tài
Chuyến đò đầy người lỡ thời.
Nếu chúng ta giữ mực thẳng.
Hôm nay trời thường mưa và gió
Vua Trần Anh Tông xem xong khen ngợi, thăng Thái học sinh dũng cảm, thăng đến chức Nội giám.[1]
Tham dự phiên tòa chính
Đến đời vua Trần Minh Tông, Mạc Đình Chế ngày càng được tín nhiệm chữa bệnh. Ông là người có lương tâm, nhà vua biết ý muốn thử ông nên sai người đem 100 nghìn quan đến cửa nhà ông. Sáng hôm sau Đinh Chi đem túi tiền vào triều tâu với vua, vua tâu. “Tiền đó không ai lấy, để tôi lấy mà tiêu”. Anh ta từ chối và không nhận vì nghĩ rằng người đã khuất sẽ lo lắng, lúc này nhà vua nói rằng anh ta chỉ cố gắng và trao cho Mak Din Chee phần thưởng của sự trung thực.[4]
Cùng với Mạc Đĩnh Chi, Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Tiến Lữ, Nguyễn Duy, Phạm Mại, Phạm Ngọ, Nguyễn Trung Ngạn… được sử gia Ngô Thì Sĩ đánh giá trong Việt sử thông giám cương mục; Những người này khi làm quan thì ngang tàng, dám nói thẳng, có phong cách làm quan bậc nhất, tài hoa hơn hẳn các vương phủ khác.[4]
Thời vua Trần Hiến Tông, ông giữ chức Nội kiểm, Lang trung Hữu Thị, đổi làm Lang trung Tả Thái, rồi chuyển sang chức Tả nổ trong các Đại quan.[1]
Đến triều Nguyễn
Năm 1308, đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi sang nhà Nguyên mừng tân vương Nguyên Vũ Tông lên ngôi.[a] Chỉ 20 năm sau cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ 3 (1287-1288), việc truyền giáo hết sức căng thẳng.
Tuy nhiên, ông đã thể hiện khả năng và tài năng của mình trong hoạt động ngoại giao. Hoạt động văn học và tài năng của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.
Rồi đến năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần thứ hai, nhưng không tìm được nguồn.
Mak Din Chee [1272 – 1272]. Người Chí Lâm thuộc Sách Giới (nay là thôn Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương) Hưng Long thứ 12 (1304), đời Trần An Tông
Trình độ: Đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn
Chức vụ: Làm quan tả nổ (tức Thượng thư)
Tóm tắt: Mạc Đĩnh Chế lúc mới sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, miệng rộng, mũi tẹt, trán dô. Dân làng thường nói đó là khỉ thử việc. Nhưng ông rất thông minh, từ nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng. Thời Trần An Tông, năm Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi khoa văn rất xuất sắc, nhưng vì mắt mũi xấu nên vua không cho đỗ. Sau đó, ông dâng thẻ phú quý “Ngọc thức” (Hoa sen trong giếng ngọc) để thể hiện phẩm giá cao quý của mình.
Làm quan cho Tả tỏa (tức Thượng Thư), hai lần đi sứ nhà Nguyên. Thân hình xấu xí, chất phác, chính trực, thông minh, phản ứng nhanh nhạy. Khi vào thi Đình, vua thấy lạ, tỏ ý không bằng lòng. Để thể hiện ý chí của mình, ông lập tức làm lớp “Ngọc châu Liên Pu” (việc cắm hoa sen phú quý trong giếng ngọc). “Ngọc Quang Liễn phú”, thơ và câu đối của ông còn được truyền trong các sách “Việt âm thi tập” và “Toàn Việt thi lục”.
Tháng 3 Mở kỳ thi tiếng Thái cho học sinh. Bài thi: Đầu tiên mô tả lai lịch của Mục Thiên Tử và Thiên Ý Quốc để khuyên can những kẻ kém học; cuộc kiểm tra thứ hai về kinh nghiệm, kinh sách và thơ ca; xác minh, xử lý, xếp lịch thi lần thứ ba; Cuối cùng là thi sách để xác định thứ tự đỗ cao, đỗ thấp. Khoa này nhận 44 sinh viên từ Thái Lan; Ba người đầu tiên lên được Phượng Thành Môn đi dạo phố ba ngày. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho Thái học sinh chí khí hừng hực bằng chức Thượng thư; Hội đồng Bùi Mộ nhận được di cảo của Chi bộ, được thăng Nội các thư ký; Trung phong thám hoa được thăng quan, thăng quan nhị phẩm. Còn từ hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn trở xuống được phong các quan tuỳ theo thứ tự thăng hay giáng. Ông được giao trông coi kho tàng của nhà vua, rồi đến chức Tả thị lang (Shan Thung). Đặc biệt là hai lần ông sang Trung Quốc làm đại sứ, ông đã dùng tài năng và trí tuệ của mình khiến người nước ngoài khâm phục.
Lời chua chát – Tales of Muk Tien Tu. Cuốn sách được khai quật trong một ngôi mộ ở quận Level, do Tuân Huk của nhà Đường biên tập, và chú thích bởi Quách Fak.
Y Quốc Thiện. Nguồn gốc và nội dung không rõ.
Kinh: Hỏi nghĩa nghi của ngũ kinh, lối viết theo cổ văn.
Thơ. Theo hình ngôi sao năm cánh của Trường Thiên.
Phú: Sử dụng hình thức tám âm tiết.
Mak Din Chee. Người của Chí Lâm thuộc Sách Giang.
Bùi Mơ. Người Tân Oa ở Sơn Nam.
Trưởng phòng. người Thanh Hóa.
Nguyễn Trung Ngạn. Tiên Thị thuộc phủ Khoái Châu.
Đặng Dung là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (tức xã Long Động, huyện Chí Lâm), thủy tổ của Đặng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên nhà Trần, làm quan đến Tả xạ. Đĩnh Chi sinh Cao, Cao sinh Tuy, Tuy sinh Tùng, dời về xã Lan Khê, huyện Thanh Hà, sinh Bình, Bình dời về xã Ko Trai, huyện Ngì Dương…
Thẩm quyền giải quyết. Lấy từ ĐVSKTT và KĐVSTGCM